Khủng hoảng kinh tế hiện nay tại Việt nam - Nguyễn Bá Lộc
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Bá Lộc
Trong thời gian 33 năm, kể từ 1975, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua những thăng trầm to lớn. Kinh tế tan nát trong 10 năm đầu (1975-1985). Trong giai đoạn đầu của “Đổi mới kinh tế” (1986-1996) có một số tiến bộ và có kết quả, khi theo đường hướng và kỹ thuật kinh tế thị trường.
Kế đến là giai đoạn “khủng hoảng” kỳ đầu của giai đoạn đổi mới (1997-2000), do bản chất bất ổn của nền kinh tế pha trộn và sự khủng hoảng tài chánh của một số nước ở Á Châu.
Sau đó, nền kinh tế VN được phục hồi và phát triển tương đối khả quan, nếu chỉ nhìn trên các chỉ số kinh tế.
Nhưng những kết quả đó khá mong manh bởi môi trường và bản chất chính trị xã hội VN, bởi sự kém hiệu năng trong quản lý kinh tế và bởi sự khủng hoảng kinh tế hoàn cầu mới xảy ra trong năm 2008.
Mỗi lần khủng hoảng kinh tế như vậy thì đa số người dân chịu đau thương và mất mát nhiều nhất. Vì nền kinh tế đó mang đầy tính bất thường và bất công cho nên sự chữa trị không dễ dàng và không như các nước có đời sống kinh tế và chính trị bình thường.
Chúng tôi xin tóm lược hai lần khủng hoảng đó của giai đoạn đổi mới nền kinh tế VN.
Cuộc khủng hoảng lần thứ nhất: 1997-2000
Cuộc khủng hoảng lần thứ hai: 2007-2008 (và còn tiếp).
I. Cuộc Khủng Hoảng Kinh Tế Lần Thứ Nhất (1997-2000):
Đại hội VI của đảng CSVN đã quyết định thay đổi đường lối kinh tế thị trường (từ 1986).
Từ đó đến nay đã hơn 20 năm CSVN đã thoát qua được sự ngặt nghèo. Từ từ đạt được một số kết quả đáng kể, nếu chỉ nhìn vào các con số được báo cáo. Nói chung sinh hoạt kinh tế, đời sống người dân có khá hơn; xuất cảng và đầu tư ngoại quốc có gia tăng hơn. Chỉ nhìn hiện tượng có lẽ phần nào lạc quan như các cơ quan Ngân Hàng Thế Giới và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế nhận xét. Nhưng nhìn sâu và xa hơn vào bản chất của nền kinh tế pha trộn trong môi trường chính trị và xã hội VN, chúng ta có thể nhận thấy được có nhiều điều bất ổn to lớn và tuyệt đại đa số ngườn dân chân chính chịu quá nhiều thiệt thòi trong sự tiến bộ phiến diện đó.
Cái bất ổn đó làm cho kinh tế VN bị khủng hoảng trầm trọng hồi những năm 1997-1998-1999
1). Một số tiến bộ kinh tế trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế lần thứ nhất:
VNCS đã đạt được một số kết quả trong 10 năm đầu của đổi mới kinh tế (1986-1996) qua hai kế hoạch ngũ niên thứ ba (1986-1990) và thứ tư (1990-1995).
Sau đây là vài con số biểu kiến ghi nhận được từ Cục Thống Kê của CSVN hoặc từ Ngân Hàng Thế Giới hay Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế.
Tỷ Suất Phát Triển (1) |
1986 2,9%
|
1990 4,7%
|
1992 8,6%
|
1995 9,5%
|
Lợi Tức Đầu Người ($US)(2) |
120 |
206 |
|
250 |
Xuất Cảng (triệu $US) |
2,078 (1991) |
2,580 (1992) |
2,981 (1993) |
5,449 (1995) |
Đầu Tư Ngoại Quốc (triệu $US) (thực hiện) |
|
213 (1991) |
394 |
2671 |
Lạm Phát (%) (3) |
774,5 |
95,8 |
37,7 |
16,9 |
Nguồn gốc thống kê:
(1) Center For Democracy Studies
(2) Tổng Cục Thống Kê và Ngân Hàng Thế Giới
(3) Tổng Cục Thống Kê và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
Nhưng từ 1998-1999, kinh tế VN đi vào khủng hoảng. Theo Ngân Hàng Á Châu (ADB) thì tỷ suất phát triển 1999 chỉ đạt có 3,7% so với năm trước. Nguyên nhân chính là do khủng hoảng kinh tế/tài chánh tại các nước Đông Á, và do sự quản lý quá yếu kém cũng như sự bê bối của chính quyền VN.
Vài ví dụ:
1996 1998 1999
- Mức tăng trưởng kinh tế: 9.3% 4.0% 3.7%
- Chỉ số giá cả tăng : 4.5% 9.2% 8%
2). Nguyên nhân cuộc khủng hoảng lần thứ nhất:
Sau khi đổi mới (1986) tình hình kinh tế VN có khá hơn. Tuy nhiên, vì bản chất nền kinh tế đó chứa đựng nhiều bất ổn và bất quân bình, cho nên khủng hoảng kinh tế dễ dàng xảy đến hơn là tại các nước có nền kinh tế tiến bộ bền vững.
VN đang đi trên con đường tiến bộ kinh tế từ 1995 đến 1997, thì qua 1998-1999 bị khủng hoảng khá nặng nề.
Có nhiều nguyên nhân làm cho nền kinh tế đó bị suy thoái. Tựu trung có hai nguyên nhân chính:
- Nguyên nhân từ bên ngoài
- Và nguyên nhân từ bên trong
a). Các nguyên nhân từ bên ngoài:
* Chính yếu là do cuộc khủng hoảng tài chính của một số nước ở Đông Á (Thái Lan, Đại Hàn, Indonesia và Nga vào năm 1997):
Các nước trên do “bội thực ngoại tệ” từ việc vay mượn quốc tế và từ đầu tư ngoại quốc tăng quá nhanh. Ví dụ 5 nước Á Châu: Thái Lan, Đại Hàn, Indonesia, Malasia, Phi Luật Tân, mắc nợ lên tới 274 tỷ Mỹ kim.
Đại Hàn có nợ ngoại quốc gấp đôi dự trữ ngoại tệ.
Thái Lan có nợ nước ngoài bằng 1,5 dự trữ.
Indonesia có nợ nước ngoài bằng 1,7 dự trữ ngoại tệ.
b). Nguyên nhân trong nước:
Các nguyên nhân từ trong nước đã tạo ra khủng hoảng kinh tế 1997-1999, thì có rất nhiều. Chúng ta có thể ghi tóm tắt như sau:
· Do cơ cấu kinh tế: Mặc dù đại hội đảng CS 1986, chấp nhận nền kinh tế VN có nhiều thành phần trong đó có tư doanh. Nhưng trên thực tế, lúc bấy giờ, khu vực quốc doanh quá lớn, quá mạnh và quá bất công cho khu vực tư doanh. Ví dụ khu quốc doanh chiếm 60% tài sản kinh tế quốc gia, 80% tín dụng cho công thương nghiệp, và gần như độc quyền chiếm thị trường ngoại quốc trong các món hàng quan trọng xuất cảng như dầu thô, gạo, cao su, cà phê, hải sản, đồ may mặc, .. Vì quốc doanh quản lý quá kém và tham nhũng trầm trọng cho nên hàng VN bán ra thị trường ngoại quốc bị sụt giảm mạnh mẽ.
· Do quản lý kinh tế: Mặt khác, VN cố giữ tỷ giá đồng VN so với đồng đô la Mỹ ở mức cao, cho nên hàng VN có giá cao, khó bán được nhiều.
Đồng thời giá điện, giá thuê đất, chi phí hành chánh, mọi thứ đều cao hơn các nước xung quanh, và thủ tục hành chánh chậm chạp, rắc rối, tốn kém và dễ nản lòng cho các nhà đầu tư.
· Do thị trường tiêu thụ trong nước còn quá nhỏ:
Vì lợi tức đầu người quá nhỏ so với các nước khác, VN lúc đó chỉ có khoảng 450$US/người (Một trong 20 nước nghèo nhất thế giới). Với lợi tức đó người VN chỉ có thu nhập bằng phân nửa người Tàu cộng, bằng 1/10 người Thái Lan, và 1/30 người Đại Hàn.
Nhất là những người ở thôn quê, lợi tức đầu người chưa được 60 Mỹ kim/năm thì có đâu dư tiền để mua sắm. Cho nên trong những cái khó khăn lớn là thị trường trong nước quá yếu không cứu nổi kỹ nghệ khi xuất cảng bị giảm. Dù sao Trung quốc đỡ hơn VN nhiều, vì thị trường trong nước quá to lớn.
Ví dụ: Từ 1994-1997 tín dụng của các ngân hàng thương mại như sau: (tỷ đồng VN)
Năm : 1994 1995 1996 1997
-Cho xí nghiệp quốc doanh vay: 18.604 20.855 22.030 23.973
-Cho khu vực tư vay : 9.006 12.792 16.290 19.769
(Nguồn tài liệu: The Vietnam Business Journal – Dec/1998)
Số lượng tín dụng trên đóng góp rất lớn vào việc làm tăng khối lượng tiền tệ lưu hành. Mặt khác khối lượng tiền tệ tăng, phần lớn không làm tăng sản xuất mà chỉ để đầu cơ địa ốc.
Ngoại tệ dự trữ của VN là con số bí mật. Căn cứ vào các bài nghiên cứu lúc đó thì VN có độ 1 tỷ Mỹ kim dự trữ. Nhưng số nợ vay từ ngoại quốc trên 2 tỷ Mỹ kim.
· Do xuất cảng giảm:
Nhờ kinh tế khá, nhất là nhờ dầu đào được nhiều hơn và nông dân làm ruộng nhiều mùa hơn, nên số lượng gạo xuất cảng tăng nhiều từ 1994 và dầu xuất cảng tăng. Theo nhận xét của ADB quá lệ thuộc vào kinh tế ngoài VN, tổng kim ngạch xuất nhập cảng gần bằng tổng sản lượng quốc gia.
Nhưng đến 1998, xuất cảng gạo, năm 1998 VN xuất cảng qua Nhật giảm 30% và qua Đại Hàn giảm 40%, lý do là vì VN xuất cảng 60% qua các nước Đông Á mà các nước này đang gặp khủng hoảng kinh tế. Lúc đó, Mỹ chưa mở cửa cho VN vào. Một mặt khác, xuất cảng bị giảm là do đồng tiền các nước Á Châu bị mất giá mạnh, trong khi đó tiền VN cứ cố gắng giữ tỷ suất giao hoán cao, nên hàng có giá cao.
· Do đầu tư ngoại quốc:
Vì khủng hoảng tài chánh ở các nước Á Châu, nên các nhà đầu tư ở đấy (Singapore, Thái Lan, Đại Hàn, Mã Lai Á, Đài Loan, Hồng Kông) giảm số lượng đầu tư tại VN. Mà lúc đó đầu tư ngoại quốc từ các nước Á Châu là chánh yếu (70% tổng số đầu tư ngoại quốc, theo tập san The Vietnam Business Journal 12/1998).
Đầu tư ngoại quốc trong tháng 4/1999, đã giảm còn bằng 32% so với năm trước (theo báo cáo của chánh phủ tại quốc hội khóa X, 1999). Còn một lý do nữa làm đầu tư ngoại quốc bỏ chạy là vì guồng máy hành chánh quá kém, rắc rối và tham nhũng.
Hậu Quả Của Khủng Hoảng Kinh Tế Lần I
Cuộc khủng hoảng kinh tế của VN năm 1998-1999, đã làm cho nền kinh tế vốn yếu đuối, bệnh hoạn (vừa vật chất lẫn tâm thần) càng suy nát thêm. Kết quả là đất nước và người dân chịu thiệt. Còn đảng và đảng viên không có gì thay đổi, vẫn độc quyền, độc đoán và hưởng thụ trên sự đau khổ của người dân.
Các hậu quả có thể tóm tắt:
a). Vật giá gia tăng làm cho người nghèo càng nghèo hơn, nhất là nông dân.
b). Thất nghiệp gia tăng, vì các xí nghiệp quốc doanh lỗ lã thêm, xuất cảng giảm, và các công ty của tư bản ngoại quốc cũng thu hẹp và ít có đầu tư mới (6 tháng đầu năm 1999, đầu tư ngoại quốc giảm 38% so với năm trước).
c). Nhiều dân, các chủ tiểu thương bị bắt buộc phải mua công trái (để giảm khối lượng tiền tệ) (1999). Tiền bán công khố phiếu là để bù lỗ các quốc doanh. Đó là bóc lột dân.
d). Lãi suất ngân hàng gia tăng làm cho tiểu công nghệ, nông dân, các nhà nuôi tôm, cá xuất cảng kẹt vốn.
e). Quốc doanh đóng góp quá ít cho ngân sách. Năm 1999, quốc doanh chỉ đóng góp có 14,330 tỷ đồng cho ngân sách 69,500 tỷ (20.6%), trong lúc quốc doanh chiếm 75-80% tín dụng ngân hàng.
II. Khủng Hoảng Kinh Tế Lần Thứ Hai Sau Khi Đổi Mới (từ 2007 - )
Cuộc khủng hoảng kinh tế tại VN lần thứ nhất (1998-2000) sau khi đổi mới đã được phục hồi lại từ 2001 và gia tăng khá từ 2004-2006. Nhưng đến năm 2007 VN đau thương trong cuộc khủng hoảng lần thứ hai cho đến nay (2009) và hiện chưa biết đến bao giờ sẽ phục hồi lại được.
CSVN rút kinh nghiệm của cuộc khủng lần hoảng thứ nhất, tưởng lần này phải đỡ thiệt hại hơn, nhất là từ các nguyên nhân nội tại. Nhưng thực tế hai năm qua đã diễn ra cho ta thấy phần lớn các nguyên nhân của lần trước vẫn còn tái tục trầm trọng hơn. Đó là khối lượng tiền lưu hành và tín dụng cho vay để đầu cơ nhà đất và phí phạm quá lớn lao, khi bị các yếu tố suy thoái từ bên ngoài VN không đỡ nổi. Và lần này mức độ lạm phát cao hơn, giá cả tăng nhiều hơn. Mọi chuẩn bị hội nhập kinh tế toàn cầu sau khi được chánh thức là thành viên tổ chức thương mại thế giới (WTO) hy vọng trở thành “con rồng kinh tế” ở Á Châu gần như bị tiêu tan.
- Thực Trạng Kinh Tế Trong Hai Năm Gần Đây:
Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ năm 2004, lạm phát tăng nhanh từ 2007. Mọi thứ hàng hóa đều tăng lên từ 50-100% trong vòng một năm.
a). Mức độ gia tăng lạm phát:
Năm Mức Độ Lạm Phát (%)
2004 5%
2006 7%
2007 12%
5/2008 25%
10/2008 28%
Nguồn tài liệu: Cục Thống Kê VN và Ngân Hàng Thế Giới
b). Giá cả gia tăng kinh khủng từ năm 2007:
Các món sản phẩm chánh yếu gia tăng cao hơn mức lạm phát trong đó có xăng dầu (trên 200%). Nhất là sau khi chánh phủ bỏ trợ cấp xăng dầu hồi đầu năm 2008, khi giá dầu trên thị trường quốc tế gia tăng nhanh (theo World Bank 12/2008). Giá dầu thô một thùng từ trung bình $50.00 (Jan/07) lên trên $90.00 (12/07). Khi bỏ trợ cấp xăng dầu, giá xăng ở VN gần bằng giá xăng ở Mỹ (vào khoảng 1 đô la một lít). Giá xăng ảnh hưởng nhanh chóng đến giá cả mọi thứ hàng hóa và dịch vụ. Theo Tổng Cục Thống Kê VN, thì trong tháng đầu năm 2008, nhóm lương thực tăng giá 52-88%.
c). Đầu tư ngoại quốc giảm:
Mặc dù trong năm 2006, các nhà đầu tư nước ngoài hãy còn muốn đầu tư vào VN, mặc dù từ 2004 đến 2007, tỷ lệ phát triển đạt được cao 8-8.5%/năm. Trong sự gia tăng kinh tế đó, có sự đóng góp rất đáng kể của đầu tư ngoại quốc (20-25% tổng số đầu tư của VN).
Đầu tư ngoại quốc giảm vì tỷ suất đồng bạc VN với đô la Mỹ không đúng như thực tế, tức là đồng VN còn cao hơn thực tế, mặc dù đã có sụt giá. Theo cơ quan lượng giá Fitch, Hoa Kỳ trong năm 5/08 lượng giá VN không còn hấp dẫn đầu tư, vì quá nhiều tiêu cực, hạ từ mức “tương đối” xuống “tiêu cực”. Theo tin từ China Economic News Service của Đài Loan vào tháng 6/08, thì phần lớn công ty của Đài Loan bỏ đầu tư ở VN vì tình trạng lạm phát nặng nề.
d). Thị trường tín dụng và tiền tệ gia tăng quá bất thường:
Trong ba năm qua số lượng tín dụng cho quốc doanh tăng từ:
- Năm qua vì đồng bạc mất giá, và để chống lạm phát, chánh phủ ra lệnh tăng lãi xuất cho vay lên 24% lãi xuất tiết kiệm tăng từ 12% lên 14% (cao nhất Á Châu). Lãi xuất tăng làm khó khăn cho việc vay tiền sản xuất và kinh tế càng trở ngại thêm.
- Tín dụng tung ra cho các công ty quốc doanh phần lớn không phải để tăng sản xuất mà là để đầu cơ nhà đất và chứng khoán. Ngân Hàng Trung Ương tăng lãi xuất chiết khấu từ 12% lên 14%.
B. Nguyên Nhân Sự Khủng Hoảng Kinh Tế Lần Thứ Hai Sau Đổi Mới (2007-đến nay)
Có nhiều nguyên nhân đưa tới cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay ở VN. Có những nguyên nhân từ bên ngoài, và có những nguyên nhân từ bên trong. Nhưng nguyên nhân chánh là do bản chất của nền kinh tế và bản chất của chế độ.
- Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế: Nguyên nhân chánh của cuộc khủng hoảng là do khối tín dụng quá lớn, vốn đầu tư cho khu vực quốc doanh quá lớn và lãi xuất không thích hợp.
- Theo Ngân Hàng Thế Giới (Report tháng 6/2008) thì nguyên nhân chánh là do sự suy sụp thị trường nhà đất, mất 60% trong một năm, và do sự suy sụp nhanh chóng thị trường chứng khoán VN. Theo tin này thì vào khoảng tháng 6/08, các nhà tư bản đỏ bị mất một tỷ Mỹ kim do sụp đổ thị trường chứng khoán và các nhà đầu tư từ ngoại quốc mất 1,2 tỷ Mỹ kim.
- Theo nhận định của phòng thương mại Mỹ tại VN thì nền kinh tế VN bị đe dọa bởi sự tuột dốc của thị trường địa ốc, của việc tăng lương, công nhân đình công và tham nhũng (tháng 6/08).
Ngoài ra, còn những nguyên nhân chánh như là:
- Sự khủng hoảng tài chánh, tín dụng toàn cầu mà bắt đầu từ Hoa Kỳ.
- Sự gia tăng cao một cách nhanh chóng giá dầu.
- Do sự quản lý kinh tế vừa kém cỏi, vừa tham nhũng.
- Do bịnh nặng và sự bất thường của nền kinh tế gần như bất khả chữa trị.
Sự Suy Sụp Nhanh Chóng Vụ Đầu Cơ Địa Ốc Và Chứng Khoán
Khi chuyển đổi qua kinh tế thị trường và khi tình hình đầu tư gia tăng, nhất là khi càng ngày càng có nhiều nhà “tư bản đỏ” có nhiều tiền của, thì thị trường địa ốc chuyểng động nhanh chóng. Giá nhà đất tại các thành phố lớn như Saigon, Hà Nội tăng lên rất cao và rất nhanh.
Các nhà tư bản không bỏ lỡ cơ hội. Ai cũng có thể hiểu được đầu tư vào địa ốc là làm giàu nhất.
Vấn đề đặt ra là ai có tiền nhiều để đầu tư tự do, mua bán tự do, giá cả theo cung cầu. Nhưng VN trong chế độ XHCN là một xã hội không bình thường. Cho nên những người đầu tư và đầu cơ vào địa ốc. Tiền đó từ đâu? Và ai có số tiền to lớn để đầu cơ địa ốc?
Trên nguyên tắc, nhà đất đặt trên thị trường tự do, mua bán tự do, giá cả theo cung cầu. Nhưng VN trong chế độ XHCN là một xã hội không bình thường. Cho nên những người đầu tư địa ốc phần lớn là những người hay công ty không dùng tiền mình có được một cách bình thường. Những người này dùng tiền của các ngân hàng quốc doanh, tức là tiền của dân và tiền in ra bừa bãi, và gồm cả các đại công ty quốc doanh (như công ty Dầu khí, Hàng Không, Viễn Thông, Điện Lực, v.v...) bỏ ra những món tiền khổng lồ để đầu cơ địa ốc.
Các nguyên nhân trên vừa do yếu tố bên ngoài, vừa do yếu tố bên trong.
1) Yếu tố bên ngoài là:
Cuộc khủng hoảng tài chánh của các tổ chức tài chánh lớn (World Bank, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu), kế đến là do cuộc khủng hoảng nhà đất bắt nguồn từ Hoa Kỳ, đúng ra là cuộc khủng hoảng tín dụng cho vay để mua nhà, do các ngân hàng cho vay bừa bãi (nợ xấu, nợ thiếu bảo đảm) để đến nỗi nhiều ngân hàng vỡ nợ, hay sát nhập lại. Hai tổ chức tín dụng lớn nhất Hoa Kỳ là Freddie Mae và Fennie Mac gần sập tiệm phải nhờ chánh quyền Hoa Kỳ (Tổng Thống Bush) cứu giúp cho cả 150 tỷ Mỹ kim.
Hệ thống tài chánh quốc tế có liên quan chặt chẽ giữa các quốc gia trên thế giới. Cuộc khủng hoảng của Hoa Kỳ vừa qua (2008) ảnh hưởng nhanh chóng đến Pháp, Anh, Nhật, Trung Quốc. Dĩ nhiên nó có ảnh hưởng đến các nước nhỏ trong đó VN. Nhưng bản chất nền kinh tế VN là bất ổn và bệnh nặng cho nên bị ảnh hưởng nhiều hơn các nước nhỏ khác như Mã Lai, Đài Loan, Thái Lan,...
Trong các nước bị nhiều nhất là Trung Quốc, vì Trung Quốc có nhiều tiền dự trữ cho nên mua các món nợ vay mua nhà (mortgage) nhiều. VN thì không có tiền mua các món nợ đó, nhưng bị suy giảm xuất cảng và đầu tư từ các nước lớn.
2). Các yếu tố nội tại, các nguyên nhân do trong nước VN.
Như chúng ta biết một cách tổng quát: Lạm phát xảy ra và gia tăng là khi khối lượng tiền và tín dụng lớn hơn khối lượng hàng hóa và dịch vụ.
Trong mấy năm qua, khối lượng tiền lưu hành và tín dụng do chính quyền CS tung ra quá lớn, lớn hơn nhiều so với hàng hóa sản xuất. Đó là nguyên nhân chánh. Đó cũng là cách nhìn tổng quát tại nhiều quốc gia.
Đi vào chi tiết là cần phải thấy đâu là nguyên do gây ra bất quân bình đó để đưa tới tình trạng lạm phát.
Đối với VN thì nguyên nhân trong nước là chánh. Nó có thể tái đi tái lại, hồi 1998, sự kiện gây ra lạm phát khủng hoảng kinh tế hồi đó cũng tương tự như bây giờ, trên bình diện quốc nội. Cho nên, lần này nếu may mắn thoát qua được sớm khủng hoảng, mà chế độ XHCN vẫn tồn tại thời “bịnh” sẽ tái diễn. Các nguyên nhân nội tại có thể tóm tắt:
- Do bơm tiền quá nhiều cho quốc doanh (kể cả tín dụng). Vì 2/3 xí nghiệp quốc doanh bị lỗ, cho nên bao nhiêu tiền từ ngân sách hay từ quốc doanh đổ vô xí nghiệp quốc doanh thì chảy đi đâu mất gần hết. Số tiền to lớn đó không sinh sản ra hàng hóa hay dịch vụ tương ứng.
Cho đến 2006, mặc dù sau hơn 10 năm cải sửa, tình trạng quốc doanh chỉ thay đổi chút ít. Số lượng có thay đổi. Nhưng chỉ là xào bài vì dẹp bỏ các quốc doanh nhỏ, củng cố lại các quốc doanh lớn thì tiền vốn vẫn còn quá cao. Các ưu đãi cho quốc doanh (vốn, thị trường, đất đai ...) làm cho tư doanh không phát triển mạnh được. Theo nhóm cán bộ kinh tế viết trong sách “Đổi mới ở VN - nhớ lại và suy nghĩ” do Nhà xuất bản Tri Thức ấn hành hồi 2008, Hà Nội, có một số dữ kiện chúng tôi xin lấy ra đây:
“Khu vực quốc doanh chiếm 75% tài sản cố định của quốc gia; chiếm 60% tín dụng ngân hàng; 70% vốn vay từ nước ngoài. Tổng số vốn của các quốc doanh được cổ phần hóa chỉ chiếm 12% tổng số các quốc doanh và có tới 81.5% Giám Đốc cũ của các quốc doanh cổ phần hóa (tư nhân hóa) được giữ lại làm Giám đốc trong cái “vỏ mới” đo”.
Chưa kể tiền khổng lồ đổ vô cho các công ty quốc phòng hay Đoàn CS để “làm kinh tế”. Thành ra số tiền lưu hành phải tăng cao thôi. Số tiền này được sử dụng trùng lập và dùng để đầu cơ địa ốc và chứng khoán. Nghĩa là khối tiền nằm kẹt ở quốc doanh để rồi chờ cơ hội tạo lên lạm phát.
- Do ngân sách gia tăng:
Tại các nước CS thì không có ai kiểm soát thực sự sự chi tiêu của nhà nước cả. Sự lạm dụng chi tiêu rất dễ xảy ra từ cấp trung ương đến địa phương. Thu cho ngân sách, chính yếu là thuế, nhưng luôn luôn thiếu hụt mặc dù gia tăng thuế đều đều.
Có hai tệ hại lớn cho ngân sách:
· Thứ nhất là việc trả lương cho cùng một lúc hai guồng, máy to lớn (Nhà nước và đảng), vì có những chương trình và hoạt động trùng lập.
· Thứ hai là sự bòn rút từ ngân sách của cán bộ, viên chức. Có dự án, có làm mới có ăn. Đó là lý do tại sao VN có quá nhiều công trình. Một số công trình xây xong chưa bao lâu là sụp đổ.
Thu cho ngân sách thiếu hụt (mặc dù thuế tăng cao một cách thường xuyên), nhà nước cứ in tiền ra thêm để bù cho sự chi tiêu bừa bãi của hai guồng máy đó.
Mặc dù biết là tăng thêm khối tiền lưu hành là làm cho lạm phát tăng thêm, nhưng chánh phủ CSVN không quan tâm lắm cho việc in thêm tiền để chi cho nhiều tiền cho nhiều dự án thật to lớn như Nhà máy lọc dầu Dung Quốc, xa lộ Hồ Chí Minh, v.v... Bởi vì điều dễ hiểu là có thực hiện dự án thì mới có nhiều tiền vô túi riêng của đảng viên. Chẳng hạn như khu đô thị mới ở Thủ Thiêm, giá đất xung quanh đó tăng gần 100 lần so với giá bồi thường. VN đã và đang có nhiều công trình xây cất to lớn, đẹp đẽ, mỗi năm chi vào các công trình từ 4-5 tỷ Mỹ kim và số thất thoát, mất mát trong đó từ 20-30%.
Chánh Phủ VN Đã Chữa Trị Khủng Hoảng Kinh Tế Như Thế Nào?
Việc khủng hoảng kinh tế xảy ra tại nước này hay nước khác, lúc này hay lúc khác. Nhưng tình trạng ở mỗi nước mỗi khác. Tuy nhiên, cách chữa trị có một số điểm chung gần giống nhau. Nhưng khi áp dụng những biện pháp chữa trị lạm pháp, khủng hoảng kinh tế ở VN có một số điều không hữu hiệu mặc dù có kết quả tốt tại các nước khác. Bởi lẽ bản chất của kinh tế VN không giống các nước khác.
Một cách tổng quát muốn chống lạm phát là phải giảm khối lượng tiền và tín dụng đang lưu hành đồng thời gia tăng sản xuất.
Tại VN, số lượng tiền in thêm và tín dụng cho thêm là để đầu cơ nhà đất và chứng khoán. Nhà đất phần lớn là bán qua bán lại. Không tạo ra nhà mới là bao nhiêu, nghĩa là tiền tung ra không tạo thêm bao nhiêu việc làm.
Chánh phủ VN ma giáo lập công ty tài chánh quốc doanh (thuộc Bộ Tài Chánh) để đầu tư chứng khoán. Điều này chẳng những sai nguyên tắc vai trò trung lập của chánh phủ trong việc điều hợp thị trường chứng khoán, mà VN lại dùng công ty này như là một kích thích thị trường chứng khoán, mà kết quả đôi khi ngược lại.
Chánh phủ VN cũng bỏ ra khoảng 6 tỷ Mỹ kim để kích thích kinh tế. Nhưng rất có thể số tiền phần lớn để nuôi dưỡng và cứu nguy cho các công ty quốc doanh lớn mà không tạo ra sản phẩm bao nhiêu. VN tăng lãi xuất (14% cho tiết kiệm, 24% cho sản xuất để hạn chế tiền lưu hành. Nhưng nó làm cho sản xuất gặp khó khăn.
Những điều chúng tôi muốn nêu ra là:
1). Phần chánh yếu của các nguyên nhân gây ra khủng hoảng kinh tế ở VN là do bản chất không có dân chủ của chế đo. Đó là đảng CSVN nắm gần hết tài sản, tiền bạc của quốc gia, tự hoạch định, tự thực hiện, tự kiểm soát, người dân không có quyền biết và không có quyền lên tiếng. Ở các nước dân chủ, như ở Hoa Kỳ, chánh quyền muốn xử dụng một khu đất nhỏ làm hải cảng hay phi trường, bắt buộc phải có ý kiến dân qua các buổi điều trần hay qua cuộc bỏ phiếu công khai.
Nguyên nhân này từ 1975 đến nay, không có gì thay đổi, và sẽ không có thay đổi khi đảng CS còn đó.
2). Bộ máy quản lý kinh tế quá kém và quá tham lam. Điều này đưa tới các sai lầm và tai hại qua các giai đoạn: Làm kế hoạch, thi hành kế hoạch, kiểm soát và sửa sai các kế hoạch, các phương án. Cho nên tiền của có mất đi thì nhà nước hoặc tăng thuế hoặc in thêm tiền, hoặc đi xin viện trợ ngoại quốc. Và hầu hết đảng viên có sai lầm, có vi phạm luật lệ, thì xí xóa cho qua hay phạt tượng trưng. Các nước viện trợ, các cơ quan tài chánh quốc tế đã nêu ra nhiều lần từ nhiều năm nay, nhưng tình trạng thay đổi gần như không đáng kể. Bởi vì cái cốt lõi của sự suy nghĩ của cán bộ, viên chức trong cái guồng máy đó không phải là làm thế nào để thành quả kinh tế có được đó sẽ tới tay đa số người dân, mà sự suy nghĩ miên man của những cán bộ đó là làm thế nào khi thi hành dự án đó, công tác đó đem lại cho chúng bao nhiêu lợi lộc. Vì vậy, khi chúng ta hay người dân thấy được hay được các vụ “bể” trong các kế hoạch kinh tế là do sự chia chác không đều, sự tranh giành quyền lợi mà xảy ra, chớ không phải từ cơ quan giám sát của nhà nước hay từ người dân tố cáo. Chánh phủ và đảng CS có bỏ ra nhiều tỷ để kích thích kinh tế hay cứu kinh tế thì trước hết kế hoạch đó đem lợi cho các đảng viên đang có quyền.
Điều này sẽ còn tiếp diễn, mặc dù đã và sẽ càng ngày tinh vi hơn.
3). Sự suy đồi về giá trị xã hội, văn hóa:
Sự khủng khoảng kinh tế nào dù ở đâu, không bao giờ có nguyên nhân thuần nhất là kinh tế.
Trong một xứ mà chánh quyền quá can thiệp vào mọi sinh hoạt quốc gia, thì khi xảy ra tai ương, đầu tiên là từ chánh quyền đó. Nhưng chính người dân (đa số) phải có trách nhiệm.
Người dân trong nuớc, sau 33 năm, gần như quá mệt mỏi, tới độ gần như buông xuôi, gần như mặc kệ cho số phần, gần như quá tiêu cực. Giá cả gia tăng, tệ trạng xã hội gia tăng, niềm đau gia tăng. Bây giờ làm sao, làm gì! Chỉ có một số nhỏ nông dân, một số rất ít công nhân, đứng lên phản đối, dù rất là đáng khích lệ nhưng hãy còn quá ít. Chánh quyền dẹp tan. Thành phần nòng cốt cho mọi sự thay đổi lớn lao luôn luôn phải là sinh viên và trí thức. Sinh viên và trí thức VN trong quá trình lịch sử cũng đã làm như thế! Giờ đây ra sao?! Trong nước, thì một số người cho rằng nói thì dễ, nhưng làm không dễ, vì bộ máy cai trị sắt máu, gian manh của chánh quyền hiện nay.
Chúng tôi phân tích và tóm lược hai cuộc khủng hoảng kinh tế của VN. Vì tình trạng bất thường và bất lương của nền kinh tế đó sự khủng hoảng rất dễ xảy ra. Mỗi lần như vậy chỉ khổ cho đại đa số dân chúng là nông dân và công nhân. Trong hoàn cảnh nào, thì đảng viên cũng có cơ hội thu góp của cải của quốc gia và của dân chúng lương thiện.
Cali tháng Giêng, 2009